Những điểm mới đáng chú ý nhất của Luật Thư viện so với Pháp lệnh thư viện năm 2000
Chủ nhật - 05/07/2020 22:58
Sau gần 20 năm thi hành Pháp lệnh Thư viện năm 2000 đã bộc lộ nhiều bất cập, nên Luật Thư viện số 46/2019/QH14 đã được Quốc hội thông qua vào chiều ngày 21/11/2019 và chính thức có hiệu lực thi hành vào ngày 01/7/2020.
Sau gần 20 năm thi hành Pháp lệnh Thư viện năm 2000 đã bộc lộ nhiều bất cập, nên Luật Thư viện số 46/2019/QH14 đã được Quốc hội thông qua vào chiều ngày 21/11/2019 và chính thức có hiệu lực thi hành vào ngày 01/7/2020. Luật Thư viện gồm 06 Chương, 52 Điều. Vậy so với Pháp lệnh Thư viện năm 2000 thì Luật Thư viện có những điểm gì mới? Thư viện tỉnh Ninh Thuận giới thiệu tới các nhà quản lý thư viện và bạn đọc 6 điểm mới đáng chú ý nhất của Luật Thư viện cụ thể như sau: 1. Bổ sung loại hình thư viện ngoài công lập Nếu Pháp lệnh Thư viện số 31/2000/PL-UBTVQH10 quy định thư viện bao gồm 02 loại hình: Thư viện công cộng và Thư viện chuyên ngành, đa ngành, thì Luật Thư viện số 46/2019/QH14quy định thư viện được tổ chức theo 02 mô hình: Thư viện công lập và Thư viện ngoài công lập. Trong khoản 2, Điều 9 của Luật thư viện quy định rõ: a) Thư viện công lập do Nhà nước đầu tư, bảo đảm điều kiện hoạt động và đại diện chủ sở hữu được tổ chức theo mô hình đơn vị sự nghiệp công lập hoặc phù hợp với mô hình của cơ quan chủ quản; b) Thư viện ngoài công lập sẽ do tổ chức, cá nhân Việt Nam hoặc tổ chức, cá nhân nước ngoài, cộng đồng dân cư đầu tư và bảo đảm điều kiện hoạt động được tổ chức theo mô hình doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp hoặc mô hình khác. Cụ thể, khoản 1, Điều 9 của Luật quy định thư viện gồm các loại sau đây: a) Thư viện Quốc gia Việt Nam; b) Thư viện công cộng; c) Thư viện chuyên ngành; d) Thư viện lực lượng vũ trang; đ) Thư viện cơ sở giáo dục đại học (thư viện đại học); e) Thư viện cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, cơ sở giáo dục nghề nghiệp và cơ sở giáo dục khác; g) Thư viện cộng đồng và thư viện tư nhân có phục vụ cộng đồng; h) Thư viện của tổ chức, cá nhân nước ngoài có phục vụ người Việt Nam. 2. Lấy ngày 21/4 là Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam Ngày 25/02/2014, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định lấy ngày 21/4 hàng năm là Ngày Sách Việt Nam tại Quyết định 284/QĐ-TTg. Trong khoản 1, Điều 30 của Luật Thư viện quy định ngày 21/4 là ngày Sách và Văn hóa đọc hàng năm. Như vậy lần đầu tiên, ngày 21/4 hàng năm được đưa vào Luật Thư viện năm 2019 và chính thức trở thành Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam nhằm phát triển một xã hội có thói quen đọc sách và phát triển văn hóa đọc. Theo khoản 2 Điều 30 Luật này, việc phát triển văn hóa đọc được thực hiện thông qua các hoạt động sau: a) Tổ chức các hoạt động nhằm hình thành thói quen đọc sách trong gia đình, trường học, cơ quan, tổ chức trên phạm vi toàn quốc; b) Hướng dẫn phương pháp, kỹ năng đọc sách, khai thác thông tin cho trẻ em tại các thư viện trường học và thư viện công cộng; c) Phát triển kỹ năng thông tin cho người sử dụng thư viện trong tìm kiếm, đánh giá, khai thác và sáng tạo thông tin, tri thức; d) Đẩy mạnh liên thông giữa thư viện công cộng với các thư viện khác trên địa bàn; truy cập và khai thác thông tin, kiến thức từ các thư viện số dùng chung qua thiết bị điện tử di động; sử dụng các dịch vụ thư viện lưu động và luân chuyển tài nguyên thông tin thư viện. 3. Mở rộng đối tượng được thành lập thư viện Trước kia theo Pháp lệnh Thư viện năm 2000 thì chỉ có tổ chức của Việt Nam có quyền thành lập thư viện, còn các tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài sinh sống và làm việc tại Việt Nam chỉ có quyền tham gia vào các hoạt động do thư viện tổ chức. Hiện nay theo Luật Thư viện năm 2019 đã mở rộng, xã hội hóa hoạt động thành lập thư viện. Theo đó, không chỉ dừng lại ở các tổ chức của Việt Nam mà mọi tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư đều có quyền thành lập thư viện ngoài công lập.Khoản 1, Điều 18 Luật Thư viện năm 2019 quy định Đièu kiện thành lập thư viện khi đáp ứng đủ các điều kiện sau: a) Mục tiêu, đối tượng phục vụ xác định; b) Tài nguyên thông tin phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, đối tượng phục vụ của thư viện; c) Cơ sở vật chất, trang thiết bị bảo đảm phục vụ hoạt động thư viện; d) Người làm công tác thư viện có chuyên môn phù hợp với hoạt động của thư viện; đ) Người đại diện theo pháp luật của thư viện phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. 4. Xây dựng và cung cấp dịch vụ thư viện số Khoản 2, Điều 3 Luật Thư viện năm 2019 quy định: Thư viện số là thư viện hoặc bộ phận của thư viện có tài nguyên thông tin được xử lý, lưu giữ dưới dạng số mà người sử dụng truy cập và khai thác thông qua thiết bị điện tử và không gian mạng. Xây dựng cơ sở dữ liệu, thư viện số là chức năng, nhiệm vụ của tất cả các loại hình thư viện. Việc phát triển tài nguyên thông tin số được dựa trên cơ sở thu thập tài liệu số hoặc số hóa tài liệu của thư viện. Người sử dụng được cung cấp quyền truy cập trực tiếp tới tài nguyên thông tin số và các dạng khác. 5. Đẩy mạnh liên thông giữa các thư viện Liên thông thư viện là một trong những điểm mới của Luật Thư viện năm 2019, được quy định tại Điều 29. Liên thông thư viện là hoạt động liên kết, hợp tác giữa các thư viện nhằm sử dụng hợp lý, có hiệu quả tài nguyên, tiện ích, kết quả xử lý và các sản phẩm, dịch vụ thư viện. Thực hiện liên thông là nguyên tắc hoạt động chung của cả thư viện công lập và thư viện ngoài công lập (khoản 4 Điều 24). Tài nguyên thông tin được xây dựng từ ngân sách Nhà nước phải được liên thông, chia sẻ giữa các thư viện với nhau. Đặc biệt, Luật Thư viện nhấn mạnh liên thông giữa các thư viện phải phù hợp với quy mô và đối tượng phục vụ nhằm bảo đảm sự liên thông trong tra cứu thông tin thay vì quy định chung chung như trước. Khoản 1, Điều 29 của Luật quy định rõ về Liên thông thư viện bao gồm các nội dung sau: a) Phối hợp trong thu thập, bổ sung tài nguyên thông tin, dữ liệu số dùng chung và hợp tác trong xây dựng mục lục liên hợp; b) Chia sẻ, sử dụng chung tài nguyên thông tin giữa các thư viện; chia sẻ kết quả xử lý tài nguyên thông tin và sản phẩm thông tin thư viện; c) Liên kết tổ chức dịch vụ thư viện phục vụ người sử dụng thư viện. Khoản 2, Điều 29 của Luật quy định về phương thức liên thông bao gồm: a) Liên thông theo khu vực địa lý; b) Liên thông theo nhóm thư viện có chức năng, nhiệm vụ, đối tượng phục vụ tương đồng; c) Liên thông theo lĩnh vực, nội dung tài nguyên thông tin; d) Liên thông giữa các loại thư viện. Khoản 3, Điều 29 của Luật quy định về cơ chế liên thông như sau: a) Thư viện được Nhà nước ưu tiên đầu tư làm nòng cốt trong xây dựng, chia sẻ và khai thác tài nguyên thông tin dùng chung giữa các thư viện; b) Hợp tác trong việc bổ sung, mua quyền truy cập và chia sẻ tài nguyên thông tin nước ngoài, sử dụng hiệu quả nguồn kinh phí của Nhà nước và xã hội; c) Tài nguyên thông tin được xây dựng từ ngân sách nhà nước phải được liên thông, chia sẻ giữa các thư viện. 6- Định kỳ hàng năm đánh giá hoạt động thư viện Đây là quy định hoàn toàn mới so với Pháp lệnh Thư viện năm 2000. Đánh giá hoạt động thư viện được quy định tại Điều 37 của Luật Thư viện năm 2019. Theo đó, việc đánh giá hoạt động thư viện được thực hiện đối với tất cả các loại thư viện nhằm mục đích phục vụ công tác quản lý Nhà nước về thư viện và nâng cao hoạt động thư viện ( khoản 1, Điều 37) Khoản 2, Đièu 37 quy định về nguyên tắc đánh giá hoạt động thư viện được thực hiện như sau: a) Khách quan, chính xác, đúng quy định; b) Trung thực, công khai, minh bạch, bình đẳng; c) Theo định kỳ hàng năm. Như vậy, định kỳ hàng năm tất cả các thư viện đều phải đánh giá hoạt động theo Tiêu chuẩn quốc gia về Bộ chỉ số văn hóa hoạt động thư viện TCVN 11774:2016 ISO 11620:2014. Phạm Thị Thơm